Lịch sử Khoa bảng Việt Nam

Tổ tiên người Kinh bắt đầu học chữ Hán ngay từ buổi đầu thời Bắc thuộc, có lẽ từ đời vua Triệu Đà, song việc giáo dục bắt đầu có tổ chức thì từ đời Sĩ Nhiếp[5]. Cách thứ tổ chức sử sách không chép rõ; những người có tiếng về học vấn về thời đại Bắc thuộc đều đã du học ở Trung Quốc (Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng. Đến triều Ngô và triều Đinh độc lập, trị nước không được lâu mà lại lo chỉnh đốn việc võ bị và chính trị, chưa rảnh mà tổ chức việc giáo dục. Cho nên việc học bấy giờ chỉ có ở trong các chùa chiền. Có thể nói rằng bây giờ Hán học nhờ Phật học mà truyền bá trong dân gian.[6]

Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí: Nước Việt từ thời nhà Đinh, nhà Lê khoa cử chưa tổ chức, triều đình dùng người đại để không câu nệ. Đến đời nhà Lý, văn hóa mở dần; năm Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tông (1072-1076) mở khoa Bác học, năm Thiệu Minh đời vua Lý Anh Tông (1138-1140) có phép thi Đình, quy chế dùng người, điều mục và đại cương gần như đầy đủ.[7]

Theo sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính: Nước ta từ thời Lý mới có khoa cử. Xét trong Sử ký; năm Thái Bình thứ tư đời vua Thánh Tôn (1075) nước ta mới bắt đầu mở khoa thi ba kỳ, kén lấy người minh kinh bác học. Sau lại mở ra khoa Văn học. Thời vua Lý Anh Tôn mở khoa thi Thái học sinh, hỏi việc chính trị, ai đỗ thì dùng làm quan; vua Nhân Tôn mở khoa lại điển, thi hành luật thư toán, ai đỗ thì bổ làm ty thuộc.[8]

Đến đời nhà Trần, mở rộng đường khoa cử, phép thi chia làm tam giáp, bao gồm nhất giáp, nhị giáp và tam giáp[8]; niên hạn định lệ 7 năm, các đời tuân theo, phép thi ngày càng hoàn chỉnh.[9] Năm 1244 lại định lệ nhất giáp; chia làm ba bậc; bậc thứ nhất là Trạng nguyên, bậc thứ nhì là Bảng nhãn; bậc thứ 3 là Thám hoa.[8]

Nhà Lê khai quốc, trước hết mở khoa thi Hội; đến đời vua Lê Thái Tông (1434-1442) kỳ thi định 3 năm một khoa, phép thi bốn trường khác nhau, phép ấy truyền đến thời nhà Nguyễn.[9]

Nhà Lý

Triều nhà Lý, đến đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), việc dẹp loạn đã tạm yên, việc chính trị cũng đã chỉnh đốn, nên vua đổi quốc hiệu là Đại Việt và bắt đầu sửa sang việc học.[6]

Vua Lý Thánh Tôn sai lập Văn miếu (nước ta có văn miếu từ đấy), sai làm tượng Chu Công, Khổng tử và thất thập nhị hiến để thờ, tỏ lòng kính trọng Nho học.[6]

Vua Lý Nhân Tông, năm 1075, nhà vua hạ chiếu những người giỏi kinh, học rộng và thi Nho học ba trường [10] hay gọi là kỳ thi Tam Trường. Kỳ này chọn được 10 người. Thủ khoa là Lê Văn Thịnh.[11] Năm 1076, Năm 1086, thi những người có văn học trong nước bổ vào làm quan tại viện Hàn lâm, Mạc Hiển Tích đậu đầu, được bổ làm Hàn lâm học sĩ[10]

Đời vua Lý Anh Tông, năm 1152, thi Đình. Năm 1165 thi Thái Học sinh. Năm 1185, thi học trò từ 15 tuổi trở lên, ai thông Kinh Thi, Kinh Thư thì được vào hầu ngự diên. Năm 1193, thi lấy học trò vào hầu nơi ngự học. Năm 1195, thi Tam giáo cho đỗ xuất thân.[12]

Theo lời bàn của Sử thần họ Ngô trong sách Lịch triều hiến chương loại chí: Thi tam giáo là thi xét những người thông hiểu cả đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật thì cho đỗ.[12]

Nhà Lý mở khoa thi chép trong sử chỉ có 6 khoa thi bao gồm:

  • Khoa thi năm Ất Mão (1075, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh, người huyện Gia Định (nay là huyện Gia Lương, thuộc Bắc Ninh.)
  • Khoa thi năm Bính Dần (1086) triều vua Lý Nhân Tông, thi những người văn học trong nước, bổ sung vào viện Hàn Lâm. Người đỗ đầu là Mạc Hiển Tích.
  • Khoa Nhâm Thân (1154) thi Đình.
  • Khoa Ất Dậu (1165) thi học sinh.
  • Khoa Ất Tỵ (1185) thi học sinh trong nước lấy người trúng tuyển vào chầu vua học tập. Sử chép ba người thi đỗ là Bùi Quốc Khái, Đỗ Thế Diên và Đặng Nghiêm.
  • Khoa Quý Sửu (1193)thi học sinh trong nước lấy người trúng tuyển vào chầu vua học tập.[13]
Ở đời Lý và đời Trần triều đình lại đặt khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Lão), xem thế đủ biết không những nho học và phật học thịnh hành, mà lão học cũng không bị bài xích. Ở hai đời ấy, người ta đương chịu ảnh hưởng của Tam giáo đồng nguyên[14]
— Việt Nam Văn hóa sử cương; soạn giả Đào Duy Anh

Nhà Trần

Sang triều Trần, ngay đời vua Trần Thái Tôn, việc giáo dục và khoa cử đã tổ chức chu đáo hơn triều Lý. Năm 1232, ngoài phép thi Tam trường như đời trước lại mở thêm khoa thi Thái học sinh, chia làm tam giáp để phân biệt cao thấp.[15]

  1. Thi Thái học sinh: là khoa thi cho Thái học sinh, tức là các học sinh ở nhà Thái học, cũng gọi là nhà Quốc học, nói cách khác là sinh viên ở trường đại học quốc gia duy nhất của thời đó. Người thi đỗ các khoa thi này gọi là đỗ Thái học sinh.
  2. Thi Đại tỷ: còn gọi là Đại tỷ thủ sĩ được tổ chức cho năm loại đối tượng:
    1. Thuộc quan ở Tam quán (cho con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở ba "quán" (ngày nay là viện) như Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục),
    2. Thái học sinh,
    3. Thị thần học sinh (con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở 6 cục Ngự tiền cận thị chi hậu, ở Trung thư giám),
    4. Tướng phủ học sinh (con cái của các thân vương, thân công, hoàng tử, công chúa, các tướng công hầu bá thuộc họ hàng thân thích của nhà vua được nhà nước cử học quan đến dạy tại phủ đệ của mình),
    5. Người làm quan có tước phẩm.

Năm 1236, triều đình chọn nho sinh thi đỗ vào hầu vua, sau định thành lệ. Năm 1239, thi Thái học sinh, chia thứ bậc Tam giáp. Năm 1247, định niên hạn thi đại tỷ để lấy học trò, cứ 7 năm một lần.[16]

Khoa thi tháng 2, năm 1247, thi Đại tỷ, lại đặt ra tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa) ở trên Thái học sinh. Kỳ thi này lấy 48 người, xuất thân theo thứ bậc. Trước đây, hai khoa trước chỉ chia bậc Giáp, Ất, nay mới lấy Tam khôi.[17]

Tháng 8 năm 1247, thi tam giáo bắt học sinh phải thi cả ba môn Nho học, Phật học và Lão học.[15]

Đây là kỳ thi Tam Khôi đầu tiên (gọi là thi Đình, nhưng thi Đình lúc này còn là kỳ thi cuối cùng của khoa thi Đại tỷ, do triều đình tổ chức, chưa tách ra thành một khoa thi riêng) để chọn Trạng nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Trạng nguyên của khoá đầu tiên này là Nguyễn Hiền, 13 tuổi, người huyện Thượng Nguyên.[18]; Lê Văn Hưu người huyện Đông Sơn [19] 18 tuổi, đỗ Thám hoa; đỗ Bảng nhãn là Đặng Ma La, 14 tuổi, người ở Mỹ Lương[20][21]

Năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) mở khoa thi lấy Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên, mỗi bên một người cho đỗ xuất thân. Trước kia do châu Hoan, Ái ở xa nhân tài không nhiều bằng ở các kinh trấn, cho nên mỗi khoa thi lấy người giỏi nhất về bên trại gọi là Trại trạng nguyên, ngang hàng với Kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến khích. Kỳ này lấy 43 người đỗ Thái học sinh[22][23]

Năm 1266 đời vua Trần Thánh Tông, mở khoa thi lấy Kinh trạng nguyên, Trại trạng nguyên, Thái học sinh 47 người, xuất thân theo thứ bậc.[22]Năm Ất Hợi (1275), lại hợp Kinh và Trại làm một, lấy 3 người đỗ Tam khôi và 27 người đỗ Thái học sinh.[23]

Năm 1305 đời vua Trần Anh Tông thi học trò trong nước, lấy Tam khôi, Hoàng giáp và Thái học sinh 44 người. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp. Tên gọi Hoàng giáo mới bắt đầu từ đây [22]

Phép thi, trước thi ám tả Y quốc thiên và Mục thiên tử truyện để loại bớt.[24]; rồi đến thi kinh nghi (hỏi những điều ngờ trong các kinh), kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thì ngũ ngôn trường thiên, lấy 4 chữ tài, nan, xạ, trĩ làm vẫn, phú dùng thể 8 vần. Trường thứ 3 thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ tư thi văn sách.[25]

Kỳ thi năm 1305, ai đỗ Tam khôi sẽ được dẫn ra cửa Long Môn, Phượng Thành đi chơi phố 3 ngày. Trạng nguyên thì bổ Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung chức nội thư gia; Bảng nhãn thì bổ chi hậu bạ thư; có mạo sam.[26] sung chức nội lệnh thư gia; Thám hoa thì bổ hiệu thư, có quyền miện và được 2 tư; còn 330 người được lưu học. Cùng năm có chiếu dùng bảy khoa để thi học trò trong nước.[22]

Năm 1314, thi Thái học sinh, ai đỗ cho tước bạ thư lệnh. Năm 1345, thi Thái học sinh, phép thi dùng ám tả cổ văn, kinh nghĩa, thơ phú. Năm 1363 thi học trò, lấy người có văn nghệ vào làm trong quán các. Năm 1374 thi Tiến sĩ ở điện đình, lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáo, Cập đệ và đồng Cập đệ 44 người, xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Năm 1381 thi Thái học sinh. Năm 1384 thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc, núi Tiên Du. Năm 1393, thi Thái học sinh.[25]

Năm 1396, có chiếu định cách thức thi cử nhân: cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội, ai đỗ thi Hội thì nhà vua ra thi một đề văn sách để định thứ tự.[25]

Buổi đầu đời Trần, thi Thái học sinh chia ra thượng trại, hạ trại và thi Đình chia ra kinh và trại, lấy đỗ có Tam khôi, nhưng văn thể không nhất định.[25]

Theo Phan Huy Chú đây là phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể bốn trường, bỏ bài ám tả cổ văn.

  • Trường nhất thi một bài kinh nghĩa, có những đoạn phá, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết thúc làm bài hạn 500 chữ trở lên.
  • Trường nhì thi một bài thơ dùng Đường luật, một bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao hoặc thể văn tuyển, cũng hạn 500 chữ trở lên.
  • Trường ba thi một bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ một bài, dùng thể tứ lục đời Đường.
  • Trường tư thi văn sách một bài, ra đề về kinh sử thời vụ, 1000 chữ trở lên.[27]

Đời vua Trần Duệ Tông, năm 1374, Lê Quý Ly[28] cải cách phép thi đổi Thái học sinh làm Tiến sĩ cho Tam khôi và Hoàng giáp là cập đệ xuất thân; cho Tiến sĩ là đồng cập đệ xuất thân. Năm 1397, Lê Quý Ly định lại bốn trường và bỏ môn ám tả; nhất trường thi kinh nghĩa; nhị trường thi thơ phú; tam trường thi chiếu, chế biểu; tứ trường thi văn sách. Lê Quý Ly lại bắt đầu định phép thi Hương; có trúng tuyển cử nhân mới được dự thi Hội năm sau, ai trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp; gọi là thi Đình.[29]

Trước kia nhà quốc học chỉ đặt ở Kinh đô; còn trong dân gian thì việc học hành do tự ý nhân dân tổ chức. Năm 1398, Hồ Quý Ly đặt quan Giáo thụ tại các châu, các phủ những lộ Sơn Nam (nay là Nam Định); Ninh bắc (nay là Bắc Ninh) và Hải đông (nay là Hải dương); tùy theo châu phủ lớn nhỏ mà cấp học điền là 15, 12 hay 10 mẫu. Ở mỗi lộ có quan Đốc học dạy sinh đồ, cứ mỗi năm thì chọn những kẻ tuấn tú cống về triều để thi hạch.[29]

Phép khoa cử đời Trần đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo, không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học, không gì bằng phép này.
— Lời bàn của sử thần họ Ngô chép trong sách Lịch triều hiến chương loại chí

[25]

Sang triều Trần, Nho học lại càng thịnh hơn trước, vua Trần Thái Tôn mở khoa thi Thái học sinh, khoa Tam khôi và lập nhà Quốc học để giảng tứ thư, ngữ kinh.
— Việt Năm văn hóa sử cương, Đào Duy Anh

[30]

Phép thi bấy giờ, trải nhiều lần cải biến nên đã tinh tường. Sang triều Lê đại khái đều phỏng như thế.
— Việt Năm văn hóa sử cương, Đào Duy Anh

[29]

Theo thể lệ cũ, Thái học sinh cứ 7 năm thi một lần lấy đỗ 30 người, thi Trạng nguyên không có thể lệ nhất định, những người trong Tam quán: thuộc quan học sinh, thị thần học sinh, tường phủ học sinh và người có tước đều được vào thi, thế là thi Thái học sinh cũng theo như thi Đại tị, cứ 7 năm mở một khoa, khoa này không thấy nói cho bao nhiêu người đỗ Thái học sinh.
— Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn

[31]

Nhà Hồ

Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần năm 1400, tháng 8 năm đó thi Thái học sinh. Kỳ thi này lấy đỗ 20 người, Lưu Thúc Kiệm; Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn[32], Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành đều đỗ kỳ này.[33]

Năm 1404, Hồ Hán Thương định cách thức thi cử nhân: Tháng 8 năm nay thi Hương, ai đỗ thì được miễn lao dịch; tháng 8 năm sau thi ở Lễ bộ, ai đỗ thì bổ dùng; lại đến tháng 8 sang năm nữa thi Hội, ai đỗ thì sung Thái học sinh, đều cứ ba năm một khoa. Phép thi theo nhà Nguyên, thi ba trường, lại có một kì văn sách là trường tư, một kỳ thi viết và tính là trường năm.[34]

Nhà Hậu Lê

Đời vua Lê Thái Tổ

Theo Đào Duy Anh, nửa triều Trần từ đời Chu Văn An Nho học đã bắt đầu thắng Phật học. Sang đời Lê, Nguyễn, Nho học mới chiếm địa vị độc tôn. Hai triều ấy đều có phép luật nghiêm khắc đối với các nhà tu hành Phật giáo và Đạo giáo. Nước Việt trải qua cuộc nhà Minh chinh phục thì rất nhiều sách vở về Nho học, Phật học của nước Việt bị người Minh thu mất, rồi người Minh phát lại những sách Ngũ kinh, Tứ thư thể chú để dùng ở các trường công. Đến khi nhà Lê phục quốc, những chế độ và thư tịch ở đời Lý, Trần đã mất tích nên đành bắt chước chế độ của Minh triều, lấy khoa cử làm con đường dụng thân duy nhất, dùng văn chương bác cổ để làm thước đo nhân tài, lấy sách Tống nho làm chính thư.[35]

Nhà Minh hoàn thành việc xâm lược Đại Ngu[36] bằng việc đánh bại nhà Hậu Trần năm 1399; nhà Minh có mở khoa thi nhưng kẻ sĩ đều trốn tránh không chịu ra thi. Phép thi cử bỏ mặc cho đến khi vua Lê Thái Tổ đánh thắng quân Minh, khôi phục giang sơn với quốc hiệu Đại Việt.[34]

Năm 1426, Lê Thái Tổ tiến quân ra Bắc, đóng quân ở dinh Bồ Đề[37], liền hạ lệnh thi học trò văn học, đầu đề bài thi: Bảng văn dụ thành Đông Quan, lấy đỗ 50 người, sung bổ chức An phủ các lộ bên ngoài và chức viên ngoại lang ở 6 bộ trong Kinh. Khoa này Đào Công Soạn, người Tiên Lữ, Hưng Yên đỗ đầu.[38]

Sau khi Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, khôi phục độc lập (1428), nhà vua lưu tâm sắp đặt việc học ngay. Nhà vua cho mở lại trường Quốc tử giám để cho con cháu các quan và người thường dân tuấn tú vào học và đặt các nhà học ở các phủ và các lộ.[29] Lúc mới đến Đông Đô, mở khoa thi lấy đỗ 32 người.[34]

Năm 1429, một năm sau năm chiến thắng hoàn toàn quân Minh, hạ chiếu cho quân nhân các lộ và những người ẩn dật ở rừng núi, cùng các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai thông kinh sử, thì đế cả sảnh đường để thi, năm ấy thi khoa Minh kinh.[34][39]

Năm 1431, thi Hoành từ[40]. Năm 1433, vua lại thân thi văn sách.[34] Thi hai khoa này, hoặc dùng minh kinh, hoặ luận phú hoặc dùng sách vấn, đều tùy tài năng mà cất nhắc bổ dụng vượt bậc, vẫn chưa lấy đỗ Tiến sĩ.[41]

Các khoa Minh kinh, Hoành từ đại khái chỉ tùy tài chọn dùng, không bó buộc. Cách thi kỹ càng của nhà Trần bấy giờ chưa kịp khôi phục
— Lịch triều hiến chương loại chí, soạn giả Phan Huy Chú

[34]

Trẫm nghĩ, muốn thịnh trị phải được người hiền tài, muốn được hiền tài phải do tiến cử. Cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên
— Lời vua Lê Thái Tổ hạ lệnh cho các đại thần văn võ, đại phu từ tam phẩm trở lên phải tiến cử người hiền tài vào năm 1429; Đại Việt sử ký toàn thư.

[42]

Đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông

Đời vua Lê Thái Tông, năm Thiệu Bình thứ 1 (1334), định phép thi chọn kẻ sĩ. Nhà vua ra chiếu rằng:Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta từ khi trải qua binh lửa, anh tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sớm. Thái Tổ ta mới dựng nước, đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang, chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chí tiên đế, muốn cầu được người hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Nay định điều lệ khoa thi, hẹn tới năm Thiệu Bình thứ 5 (1438) thì thi Hương ở các đạo, đến năm thứ 6 (1439) thì thi Hội ở đô sảnh đường.[34]

Từ đó phép thi cứ ba năm một khoa thi, đặt làm thường lệ. Ai thi đỗ đều cho là Tiến sĩ xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Phép thi:

  • Trường nhất thi một bài kinh nghĩa và tứ thư nghĩa, mỗi sách một bài hạn trên 300 chữ.
  • Trường nhì thi chiếu chế, biểu.
  • Trường ba thi thơ phú.
  • Trường tư thi văn sách một bài trên 1000 chữ.[43]

Năm Đại Bảo thứ 3 (1442) thi Hội, thi Đình, lấy tam khôi cập đệ, lại sai soạn văn dụng bia đề tên các tiến sĩ. Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây. Sĩ tử ứng thí 450 người, lấy 33 người trúng tuyển, quan tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự điện đình ra sách vấn, sai quan đọc, tâu và xướng danh, lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban ăn yến, mũ áo, cân đai và cho vinh quy về làng, việc thành lệ về sau [44][45]

Đời vua Lê Nhân Tông, năm 1448, thi Hội, thi Đình vào tháng 8, nhà vua thân ra văn sách hỏi về lễ nhạc hành chính, chia những người đỗ ra làm chính bảng và phụ bảng theo bậc khác nhau. Sau kỳ thi Hương, lấy đỗ 760 người để thi Hội,; lấy 27 người trúng tuyển vào thi Đình.[44][45]

Đời vua Lê Thánh Tông

Đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 3 (1462), định lệ bảo kết thi Hương: Học trò đi thi thì không cứ quân dân hay chức dịch; đều từ thượng tuần tháng 8 năm nay đến khai tên ở bản đạo, đợi thi Hương đỗ thì đưa danh sách lên viện Lễ nghi, đến Trung tuần tháng 1 năm sau thì thi Hội. Cho quan bản quản cùng bản xã bảo kết, người nào thực có đức hạnh mới được khai vào sổ ứng thí. Những người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương, cũng không được vào thi. Giấy thông thân cước sắc của các cử nhân, phải khai rõ xã, huyện, tuổi, chuyên trị kinh gì, cũng là cước sắc của ông cha, không được giả mạo. Những nhà làm nghề hát xướng cũng là nghịch đảng ngụy quan và người có tiếng xấu, thì bản thân và con cháu đều không được đi thi.[44]

  • Bước thi nhất thi một bài ám tả để loại bớt người kém.
  • Trường nhất thi tứ thư và kinh nghĩa 5 bài.
  • Trường nhì thi chiếu chế biểu, dùng tứ lục cổ thể.
  • Trường ba thi thơ, dùng Đường luật, phú, dùng cổ thể, về thể ly tao hoặc văn tuyển đều trên 300 chữ.
  • Trường tư thi văn sách, đề ra về kinh sử, thời vụ, 1000 chữ trở lên.[44]

Năm 1463, định lệ ba năm một khoa thi. Tháng 2 năm ấy hội thi các cử nhân (ứng thí hơn 4400 người, lấy đỗ hơn 40 người). Năm 1466, hội thi các cử nhân, nhà vua ngự ra cửa điện Kính Thiên, ra văn sách hỏi về phép trị thiên hạ của đế vương, lấy đỗ tiến sĩ và đồng tiến sĩ theo thứ bậc khác nhau. Sau đó xướng danh các tiến sĩ, ban ân mệnh; Lễ bộ mang bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa và cho các tiến sĩ vinh quy.[46]

Kỳ thi năm 1463, số sĩ tử dự thi Hội đến 1400 người, lấy đỗ 44 người, khoa này mới cho đỗ cập đệ xuất thân.[45]

Năm 1466, theo Lê Quý Đôn, mới định ba năm thi một khoa, về thể lệ mở khoa thi, lấy các năm Tý, Ngọ, Mão và Dậu thi Hương; các năm Thìn, Tuất, Sửu và Mùi thi Hội. Khoa này lấy đỗ 27 người, có tám người đỗ Tiến sĩ và 19 người đỗ đồng Tiến sĩ.[45]

Năm 1469 không lấy đỗ Tam khôi.[45] Năm 1472, hội thi các cử nhân, có lệnh định rõ các phép thi như sau:

  • Trường nhất kinh nghĩa 8 đề trong Tứ thư, Luận ngữ 4 đề, Mạnh tử 4 đề, cử tử chọn lấy 4 đề màn làm, ngũ kinh mỗi kinh 3 đề, cử tử chọn lấy 1 đề, duy 2 đề về kinh Xuân Thu thì kể là 1 đề.
  • Trường nhì thi chiếu, chế, biểu, mỗi thể 3 bài.
  • Trường ba thi thơ phú, đều 2 bài, phú dùng thể phú Lý Bạch.
  • Trường tư thi văn sách 1 bài, hỏi về ý chỉ kinh truyện giống nhau, khác nhau, chính sự các đời hay dở thế nào.[47]

Lại định tư cách tiến sĩ như sau: Đệ nhất giáp đệ nhất danh, hàm chánh lục phẩm, 8 tư; Đệ nhị danh, hàm tòng lục phẩm, 7 tư; Đệ tam danh, hàm chánh thất phẩm, 6 tư; Đệ nhị giáo, hàm tòng thất phẩm, 5 tư; Đệ tam giáp, hàm chánh bát phẩm, 4 tư. Vào hàn lâm viện thì được hơn một cấp.[47]

Khoa thi năm 1478 không lấy đỗ Trạng nguyên, mà lấy 2 Thám hoa.[48]

Khoa thi năm 1478 đời vua Lê Thánh Tông không lấy đỗ Trạng nguyên mà lấy hai Thám hoa. Đến đời vua Lê Chiêu Tông (1520) không lấy Tam khôi. Theo Lê Quý Đôn việc đó có ý thận trọng về việc lựa chọn.[48]

Tính từ năm 1442 đến năm 1526 gồm 26 khoa, lấy 989 người đỗ tiến sĩ, mà có 63 người dự vào tam khôi, thế là thịnh đạt lắm
— Lê Quý Đôn

[48]

Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.
— Lời bản của soạn giả Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí.

[47]

Nhà Mạc

Mạc Thái Tổ phế bỏ nhà Lê được 3 năm (1527-1520), rồi truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh. Thổ tù các nơi khởi binh, suốt một dải xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc.[49]

Năm 1532, Mạc Thái Tông mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Thiến và 26 người khác.[50].

Năm 1535, mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tổng cộng 32 người trúng tuyển. Năm sau cho tu sửa lại trường Quốc tử giám.[51]

Năm 1541, vua Mạc Hiến Tông mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Kỳ gồm 30 người trúng tuyển.[52] Năm 1547, Mạc Phúc Nguyên mở khoa thi cử nhân, lấy Dương Phúc Tư cộng 30 người trúng tuyển.[53] Năm 1550, mở khoa thi lấy Trần Văn Bảo cộng 25 người trúng tuyển.[54]

Đời Lê Trung hưng và chúa Trịnh

Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, nhiều nơi khởi binh chống lại. Một viên tướng triều đình tên là Nguyễn Kim khởi binh ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, lập con vua Lê Chiêu Tông tên Duy Ninh làm vua Lê Trang Tông. Năm 1548, vua Trang Tông, mất con là Lê Trung Tông nối ngôi, mở mang cơ nghiệp.

Năm 1554, đặt chế khoa thi thi sĩ tử tại Thanh Hóa [55], lấy 13 người đỗ xuất thân và đồng xuất thân. Năm 1565, mở khoa thi lấy đỗ 10 người. Năm 1577, lấy đỗ 5 người. Từ năm 1580 bắt đầu mở lại khoa thi Tiến sĩ, lấy 6 người đỗ xuất thân và đồng xuất thân; trong đó có Nguyễn Văn Giai và Phùng Khắc Khoan. a khoa 1583, 1577, 1592, đều thi ở Thanh Hóa.[48]

Năm 1593, sau khi đánh bại nhà Mạc, Trịnh Tùng rước xa giá vua Lê Thế Tông từ Thanh Hóa về Thăng Long. Năm Ất Mùi (1595) lại mở khoa thi ở Đông Kinh, đây là khoa thi thứ nhất đời Lê trung hưng. Khoa này Nguyễn Thực và Nguyễn Viết Tráng đều đỗ đầu. Từ đấy về sau, 3 năm một lần đều mở khoa thi theo lệ cũ, duy lấy ít tiến sĩ hơn và ít khi lấy đỗ Tam khôi.[48]

Vào năm 1750, đời Cảnh Hưng (Chúa Trịnh), triều đình đặt ra lệ thu tiền cho người đi thi. Ai nộp tiền thì không bị khảo hạch, nên người có tiền đi thi nhiều đến nỗi đông quá, đạp lên nhau khi vào thi, làm chết một số thí sinh. Khi thi thì có kẻ mướn người viết hộ. Vào thời này có tiền là có được bằng cấp.[56]

Từ năm Quang Hưng đến năm nay là khoa Ất Mùi niên hiệu Cảnh Hưng mới thi 64 khoa, lấy đỗ tiến sĩ 703 người, mà cho đỗ tam khôi cập đệ và xuất thân có 33 người, Trạng nguyên chỉ có sáu người mà thôi
— Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn

.[57]

Phép thi thời trung hưng, kỳ đầu thi năm bài kinh nghĩa, sĩ tử đều chuyên trị một kinh, thể thức bài làm, có phá cú, có tiếp từ, có thích thực, có thúc kết, có bình luận, có tổng kết. Các bậc tiền bối soạn sẵn từng bài, lời lẽ rắn rỏi trang nhã, bọn hậu sinh cùng nhau rập theo bản cũ, quan trường chấm thi chỉ thải bỏ bài nào thối nát mà thôi.
— Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn

.[58]

Chúa Nguyễn

Năm 1558, Nguyễn Hoàng được sự cho phép của Trịnh Kiểm cùng gia thuộc vào trấn thủ Thuận Hóa. Từ đây Nguyễn Hoàng phát triển cơ đồ, giữ riêng một cõi phía Nam, lập ra nghiệp chúa, việc chính trị, thuế lệ, binh lính, việc gì cũng sắp xếp như một nước tự chủ.[59]

Năm Đinh Hợi 1674 chúa Nguyễn ra hai loại khoa thi:

  1. thi chính đồ: Đỗ ba hạng: 1. nhất giám sinh bổ làm tri phủ tri huyện; 2. nhì sinh đồ bổ làm huấn đạo; 3. ba cũng gọi là sinh đồ bổ làm nhiêu học.
  2. thi hoa văn: Thi ba ngày, mỗi ngày thí sinh phải làm 1 bài thơ. Ai đỗ cho làm việc ở Tam ti.[59]

Năm 1695 chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn chức và thi Tam ti. Thi Tam ti là thi Xá sai ti, thi Tướng thần lại ti và thi Lệnh sử ti. Thi Văn chức thì thi tứ lục, thơ phú, văn sách; thi Xá sai ti thì hỏi về việc binh lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng thần lại ti và Lệnh sử ti thì chỉ làm một bài thơ.[59]

Năm 1740, Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi là nhiêu học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và kỳ đệ tam thì được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ tứ gọi là hương cống, được bổ đi làm tri phủ, tri huyện.[59]

Sự thi cử ở miền Nam đời bấy giờ còn sơ lược
— Việt Nam sử lược; Trần Trọng Kim

.[60]

Nhà Tây Sơn

  • Thời vua Quang Trung thi cử thường phải bằng chữ Nôm. Nhiều giám khảo, thí sinh cho rằng triều đình khắc nghiệt.[61]

Nhà Nguyễn

Đời vua Gia Long

Vua Gia Long Nguyễn Ánh nhờ võ công mới dụng nên cơ nghiệp, cho nên các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ. Nhưng Gia Long cho rằng, sự trị nước cần phải có văn, có võ, nên nhà vua lưu ý về việc học hành thi cử trong nước.[62]

Nhà vua cho lập Văn Miếu ở các doanh, trấn, thờ Khổng Tử để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc tử giám ở kinh đô để dạy con các quan và sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan. Đặt thêm chức đốc học ở các trấn và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.[62]

Đời vua Minh Mạng và các vua Nguyễn đời sau

Đời vua Gia Long chỉ có kỳ thi Hương, đến năm 1822, vua Minh Mạng mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy Tiến sĩ. Đến năm 1829 nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu từ đây.[63]

Trước đây cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình.[63]

Phép thi vẫn theo như đời vua Gia Long. kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa; đệ nhị: thi tứ lục; kỳ đệ tam:thi phú; kỳ đệ tứ: thi văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồ, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống; nay đổi sinh đồ là Tú tài, hương công là cử nhân.[63]

Trải qua các đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, mỗi đời vua có sửa đổi nhưng thi Hội vẫn có bốn trường, con thi Hương thì rút một còn ba trường vào đời vua Tự Đức. Đến đời Kiến Phúc thì định thi Hương quyển nào được vào hạng ưu bình phải thi thêm một kỳ phúc hạch. Bài thi vẫn là kinh nghĩa, tứ lục, thơ phú và văn sách. Ở triều Lê người thi Hương đậu gọi là Cử nhân, Tú tài; đến đời Hậu Lê gọi là Hương cống, Sinh đồ; đời Giang Long cũng theo đời trước, đến đời vua Minh Mệnh đổi gọi là Cử nhân và Tú tài.[64]

Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài[63]
— Lời vua Minh Mệnh; Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim

Kết thúc

Nền Nho học bỗng gặp tình thế phải tiếp xúc với văn minh phương Tây. Lúc này trạng thái chính trị và xã hội biến thiên nhanh chóng, Nho học không còn thích hợp nữa, phải nhường chỗ cho học thuật mới. Việt Nam từ khi thành thuộc địa thì bỏ khoa cử theo nền giáo dục của người Pháp. Riêng ở miền Bắc việc thi cử theo Nho học kết thúc năm 1915; và ở miền Trung kết thúc vào năm 1918.[65] Nho học bị bãi bỏ khiến đạo đức xã hội xuống cấp, người Việt bị tách rời khỏi di sản học thuật của nước nhà tích lũy được trong mười thế kỷ, toàn xã hội mất phương hướng, mê loạn về giá trị. Học giả Trần Trọng Kim nhận định "Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả[66]".